Why ages from 2 to 7 matter so much for brain-development?
(Vì sao giai đoạn vàng từ 2 đến 7 tuổi lại là giai đoạn phát triển não bộ quan trọng của trẻ?)
Những trải nghiệm phong phú – đến từ việc vui chơi cho đến nghệ thuật và các mối liên kết, quan hệ với các thành viên trong gia đình cũng như người xung quanh — về cơ bản, đây là những yếu tố định hình nên sự phát triển của trẻ nhỏ. Theo tác giả Rishi Sriram thuộc Nền tảng giáo dục George Lucas (George Lucas Educational Foundation) chỉ ra rằng:
Não bộ của trẻ em phát triển theo từng giai đoạn nhưng trong đó có 2 giai đoạn tối quan trọng:
A. Lần đầu tiên xảy ra vào khoảng 2 tuổi đến 6 tuổi,
B. Lần thứ hai xảy ra ở tuổi vị thành niên.
Khi bắt đầu những giai đoạn này, số lượng kết nối giữa các khớp thần kinh, giữa các tế bào não (tế bào thần kinh) tăng lên gấp đôi.
Trẻ 02 tuổi có số khớp thần kinh gấp đôi số khớp thần kinh ở người lớn. Vì những kết nối này giữa các tế bào não là nơi diễn ra quá trình học tập, nên số lượng khớp thần kinh nhiều gấp đôi cho phép não học nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong đời. Do đó, những trải nghiệm của trẻ trong giai đoạn này có tầm ảnh hưởng hết sức lớn lao và lâu dài đến sự phát triển của trẻ.
04 bước để tối ưu hóa giai đoạn quan trọng này bao gồm:
1. Khuyến khích niềm yêu thích học tập ở trẻ”:
Trẻ cần được tận hưởng niềm vui, hăng say trong việc học thông qua các hoạt động vui chơi khám phá. Việc mà chúng ta – người lớn và những nhà giáo dục – nên tập trung vào sự hứng thú của trẻ hơn là kết quả hay hiệu suất mà trẻ làm ra. Chúng ta cần giúp trẻ hiểu rằng những sai lầm là một phần bình thường, đáng hoan nghênh của việc học. Khuyến khích trẻ thử làm lại. Nếu trẻ không còn hứng thú, chúng ta nên bỏ qua và tập trung vào mục tiêu khám phá mới của trẻ hơn là áp lực bắt trẻ hoàn thiện.
Giai đoạn này cũng là lúc để thiết lập một tư duy phát triển rằng niềm tin và nỗ lực sẽ giúp trẻ khám phá được tài năng của mình.
Các nhà giáo dục nên tránh tình trạng “dán nhãn” (labeling) trẻ hoặc đưa ra những nhận định khái quát quá sớm về khả năng của trẻ. Ví dụ: Trẻ thiếu kiên nhẫn, trẻ ù lì, trẻ không nhạy bén thông minh…. Ngay cả những lời khen như “Ôi con của anh/chị thật thông minh” cũng phản tác dụng.
Thay vào đó, các nhà giáo dục (thầy cô giáo) và cha mẹ hãy nhấn mạnh và đặc biệt chú trọng việc xây dựng nên sự bền bỉ và tạo cho trẻ một không gian an toàn cho việc học. Trẻ em sẽ học cách yêu thích việc học nếu chúng ta thể hiện sự nhiệt tình trong suốt quá trình hơn là cố gắng vào kết quả.
2. Tập trung vào chiều rộng thay vì chiều sâu của các hoạt động
Cho trẻ tiếp xúc với nhiều hoạt động khác nhau tạo nền tảng để phát triển các kỹ năng trong nhiều lĩnh vực. Đây là lúc để trẻ em tham gia vào âm nhạc, đọc sách, thể thao, toán học, nghệ thuật, khoa học và ngôn ngữ. Tập trung vào sự xuất sắc trong một hoạt động duy nhất có thể thích hợp vào một số thời điểm trong cuộc sống. Nhưng những người phát triển mạnh mẽ trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng của chúng ta là những người đầu tiên học cách rút ra từ nhiều lĩnh vực và tư duy sáng tạo và trừu tượng.
Sự phát triển toàn diện đặc biệt quan trọng đối với trẻ em trong độ tuổi từ 2 đến 7. Bộ não đang phát triển của trẻ đã sẵn sàng để đắm mình trong một loạt các bộ kỹ năng trong các lĩnh vực khác nhau. Tác giả David Epstein (người viết nên Range) cho rằng khoảng thời gian vàng từ 2-7 tuổi là “Khoảng thời gian lấy mẫu”, là tích phân. Chính giai đoạn này giúp trẻ có thể phát triển phạm vi năng lực của trẻ.
3. Chú ý đến trí tuệ cảm xúc
Chúng ta – những người cha mẹ, những người thầy cô, những người làm giáo dục, không nên coi thường trí tuệ cảm xúc. Trí tuệ cảm xúc cũng là một dạng thông minh. Những lợi thế của việc học trong giai đoạn phát triển não quan trọng đầu tiên này nên mở rộng đến các kỹ năng giữa tương tác giữa cá nhân trẻ với người xung quanh như bạn bè, cha mẹ, ông bà..v.v…thể hiện qua tấm lòng nhân ái thuần khiết ở trẻ, sự đồng cảm và cân bằng. Điều này giúp trẻ tương tác tốt với mọi người xung quanh, tạo tiền đề cho các hoạt động “làm việc theo nhóm” hay “giúp đỡ người khác.”
Sự đồng cảm bắt đầu bằng việc thừa nhận cảm xúc của một người. Do đó, họ đề nghị giúp trẻ ở độ tuổi này định hình và đặt tên cho cảm xúc của trẻ trước ví dụ như “con cảm thấy buồn” và sau đó kể câu chuyện về điều khiến trẻ có cảm xúc như vậy (ví dụ như “con cảm thấy buồn vì con muốn ăn kem và Mẹ đã nói không” .
Một khi trẻ thực hành việc “xác định” cảm xúc, các cha mẹ có thể bắt đầu đặt những câu hỏi khuyến khích trẻ xem xét cảm xúc của người khác.
Một cách để khuyến khích việc quan tâm đến người khác là cho trẻ tham gia vào những gì người lớn làm cho người khác. Ngay cả việc cho phép trẻ giúp bạn làm việc nhà, và giải thích, động viên rằng hành động này của trẻ khiến trẻ trở thành những người hữu ích và chu đáo hơn rồi đặt câu hỏi “Con có vui khi giúp mẹ không? con thật sự chu đáo đấy. Mẹ rất hài lòng” và quan sát cảm xúc của trẻ.
4. Không áp đặt và không xem việc giáo dục của trẻ nhỏ chỉ là tiền đề của việc học tập “thực sự”.
Bộ não của trẻ em có thể tiếp thu thông tin một cách duy nhất trong giai đoạn quan trọng này. Nếu trí thông minh được định nghĩa là khả năng học hỏi, thì trẻ em trong độ tuổi từ 2 đến 7 được nhận định là loài người thông minh nhất hành tinh.
Nghiên cứu cho thấy rằng một số kỹ năng gần như không thể học được sau giai đoạn phát triển não quan trọng đầu tiên này. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em trong độ tuổi này thích hợp nhất để học các mô hình phát triển ngôn ngữ, giúp chúng có thể thông thạo ngôn ngữ thứ hai ở cấp độ tương đương với ngôn ngữ mẹ đẻ. Tuy nhiên, khi trẻ lên 8 tuổi, trình độ học ngoại ngữ của chúng sẽ giảm đi và ngôn ngữ thứ hai không được nói tốt như ngôn ngữ mẹ đẻ. Hiệu ứng giống tuổi được tìm thấy khi học các khả năng âm nhạc như cao độ hoàn hảo.